![]() |
KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ
Hôm nay mình mở ra chủ đề mới này, mang tên KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ.
Đại khái nó thế này, chắc các bạn đọc chuyện, xem phim ngày xưa - ví dụ như "Tiểu Lý Phi Đao" - thường thấy trong các Tửu quán, thường có những người kể chuyện (như ông cháu Tôn Tiểu Hồng chẳng hạn). Nay trong chuyên mục VĂN NGHỆ - THƠ CA, mình cũng tính mở mục kể chuyện bên cạnh mục Tửu quán. Hị hị, so sánh như thế, thật có nhiều bất cập - vì đây là kể chuyện về lịch sử chống giặc của cha ông ta. Nhưng ... đại khái nó thế. Một phần nữa, cũng vì mục đích "dân ta phải biết Sử ta", nên mới mở ra mục này. Thực ra câu chuyện này, tớ đã "đi kể" rồi, nhưng đây là "nhà mình", với lại nó là của mình, nên cũng đem ra kể phục vụ bà con. Nó dài lắm, mỗi lần chỉ "kể" được một đoạn thôi Giờ xin bắt đầu, câu chuyện sắp kể mang tên : BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG
Lật xem lịch sử cha ông Ngày xưa thắng giặc Nguyên - Mông ba lần Chuyện xảy ra đầu thời Trần Mông - Thát khi đó muôn phần hung hăng Vó ngựa vượt khỏi sông Hằng Thành Cát suýt nữa đạp bằng châu Âu Nhà Trần dựng nghiệp chưa lâu Đế quốc Mông Cổ tiến vào Trung Nguyên Kim diệt, Nam Tống ngả nghiêng Quân Mông một nhánh thọc miền Vân Nam Vua Đại Lý sớm đầu hàng Quân Mông Cổ tiến thẳng sang nước mình Ngột-Lương-Hợp-Thai điểm binh Dẫn theo ba vạn kỵ binh kiêu hùng (Vào năm Đinh Tỵ, cuối đông Nhằm năm thư 7 - Nguyên Phong triều Trần) năm 1257 Thế giặc tiến mạnh muôn phần Các lộ biên giới dần dần lui quân Vua Thái Tông bèn đích thân Đem quân chặn giặc ở gần sông Lô (Ở kinh, Quốc mẫu Linh Từ Lo rút hoàng tộc, anh thư vẹn tuyền) Đụng trận ở Bình Lệ Nguyên Quân Mông đóng gấp bè, thuyền vượt sông Tướng Triệt-triệt-đô tiên phong Không đánh trực diện, đánh vòng sườn ta Thái Tông cưỡi voi xông ra Thúc quân đánh giặc rất là oai phong Nhưng vốn thiện chiến, quân Mông Vẫn né trực diện, đánh vòng hậu quân (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG (tiếp)
... Nhưng vốn thiện chiến, quân Mông Vẫn né trực diện, đánh vòng hậu quân Dẫu hậu quân rối, Lê Tần Vẫn bình tĩnh chặn đánh quân giặc thù Trung quân giặc vượt sông Lô Dồn sang lớp lớp tự hồ sóng hung Quân Trần bị ép vào thung Vẫn đánh quyết liệt anh hùng hiên ngang Sáu lộ quân nhà Vua mang Bung ra chiến đấu chẳng màng tiếc thân Tần khuyên Vua hãy lui quân Tránh thế giặc mạnh, lực quân bảo toàn Đúng lúc, Cự Chích tử thương Quân giặc ào lại tính đường hại Vua Tên giặc bắn tới như mưa Lê Tần múa mộc xông bừa ra che Thái Tông dẫn quân lui về Tần đi chặn hậu, trổ khoe oai thần Quân Mông khiếp sợ oai Tần Quân ta vừa kịp rút dần về sau Vượt qua ngã ba sông Cầu Giặc vẫn đuổi rát phía sau ào ào Tần bèn cho phá cầu phao Quân ta rút hết, giặc vào Thăng Long Lúc này thành trống, nhà không Dân tình rút hết ra vùng ngoại vi Tể tướng Nhật Hiệu rút đi Bị giặc truy đuổi, Hiệu thì sợ run Gặp Vua vẫn sợ mất khôn Tính chuyện "nhập Tống" bảo tồn tấm thân Vua giận lắm, nhưng phân vân Quay sang tiếp tục hỏi Trần Thái sư(*) Trần Thủ Độ giận, hầm hừ : "Tể tướng sợ chết, hèn như vậy à? Khi nào đầu Thủ Độ ta Chưa rơi xuống đất, Quan gia(**) khỏi bàn" Vua nghe vậy, lòng mới an Bèn cùng tả hữu lo bàn quân cơ (còn nữa) (*) : Thái sư Trần Thủ Độ, cũng là chú vua Thái Tông (**) : Cách gọi Vua ở thời Trần |
Để tiện cho mọi người nắm rõ các cột mốc thời gian lịch sử khi theo dõi đề tài KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ của pác Tunbo, xin phép được đăng lại bài “Lịch sử nước ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác năm 1941. Chỗ màu đỏ là thời điểm bắt đầu của đề tài KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ của pác Tunbo.
LỊCH SỬ NƯỚC TA Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà. Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang Thiếu niên ta rất vẻ vang Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời. Tuổi tuy chưa đến chín mười Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương. An Dương Vương thế Hùng Vương Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân. Nước Tàu cậy thế đông người Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam Quân Tàu nhiều kẻ tham lam Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi? Hai Bà Trưng có đại tài Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian Ra tay khôi phục giang san Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta Tỉnh Thanh Hoá có một bà Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi. Tài năng dũng cảm hơn người Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương. Phụ nữ ta chẳng tầm thường Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời. Kể gần sáu trăm năm giời Ta không đoàn kết bị người tính thôn. Anh hùng thay ông Lý Bôn Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người. Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền. Vì Lý Phật Tử ngu hèn Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta. Thương dân cực khổ xót xa Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu. Vì dân đoàn kết chưa sâu Cho nên thất bại trước sau mấy lần. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm. Đến hồi thập nhị sứ quân Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn. Động Hoa Lư có Tiên Hoàng Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh. Ra tài kiến thiết kinh dinh, Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời. Lê Đại Hành nối lên ngôi Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành. Vì con bạo ngược hoành hành Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương. Công Uẩn là kẻ phi thường Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta. Mở mang văn hoá nước nhà Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân. Lý Thường Kiệt là hiền thần Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành. Tuổi già phỉ chí công danh Mà lòng yêu nước trung thành không phai. Họ Lý truyền được chín đời Hai trăm mười sáu năm giời thì tan. Nhà Trần thống trị giang san, Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài, Quân Nguyên binh giỏi tướng tài: Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu, Tung hoành chiếm nửa Âu châu Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la, Lăm le muốn chiếm nước ta Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ, Hải quân theo bể kéo đi, Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm. Dân ta nào có chịu hèn Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu. Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu, Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang. Mênh mông một dải Bạch Đằng Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh, Hai lần đại phá Nguyên binh, Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời. Quốc Toản là trẻ có tài, Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền Mấy lần đánh thắng quân Nguyên Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung. Thật là một đấng anh hùng. Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo. Đời Trần văn giỏi võ nhiều Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh. Mười hai đời được hiển vinh, Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi. Cha con nhà Hồ Quý Ly, Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên. Tình hình trong nước không yên, Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu, Bao nhiêu của cải trân châu, Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn. Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn. Mấy phen sông Nhị núi Lam, Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng. Kìa Túy Động nọ Chi Lăng, Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành. Mười năm sự nghiệp hoàn thành, Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan. Vì dân hăng hái kết đoàn, Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng. Vua hiền có Lê Thánh Tôn, Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành. Trăm năm truyền đến cung hoàng, Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi. Bấy giờ trong nước lôi thôi, Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà, Bảy mươi năm vạn can qua Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi. Từ đời mười sáu trở đi, Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau, Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng. Dân gian có kẻ anh hùng, Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn, Đóng đô ở đất Quy Nhơn, Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền Nhà Lê cũng bị mất quyền, Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu, Ông đà chí cả mưu cao, Dân ta lại biết cùng nhau 1 lòng. Cho nên tàu dẫu làm hung, Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà. Tướng tây Sơn có một bà, Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân, Tay bà thống đốc ba quân, Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là. Gia Long lại dấy can qua, Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài. Tự mình đã chẳng có tài, Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây. Nay ta mất nước thế này, Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà, Khác gì cõng rắn cắn gà, Rước voi dầy mả thiệt là ngu si. Từ năm Tân Hợi trở đi, tây đà gây chuyện thị phi với mình. Vậy mà vua chúa triều đình, Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai. nay ta nước mất nhà tan Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn. Năm Tự Đức thập nhất niên, Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây. Hăm lăm năm sau trận này, Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan, Ngàn năm gấm vóc giang san, Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây ! Tội kia càng đắp càng đầy, Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng. Nước ta nhiều kẻ tôi trung, Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương. Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương, Cùng thành còn mất làm gương để đời. Nước ta bị Pháp cướp rồi, Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng; Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương. Mấy năm ra sức cần Vương, Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên, Giang san độc lập một miền, Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành. Anh em khố đỏ, khố xanh, Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa, Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa, Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn. Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu. Nam Kỳ im lặng đã lâu, Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây. Bắc Sơn đó, Đô Lương đây! Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn. Xét trong lịch sử Việt Nam, Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng. Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông, Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên. Ngày nay đến nỗi nghèo hèn, Vì ta chỉ biết lo yên một mình. Để người đè nén, xem khinh, Để người bóc lột ra tình tôi ngươi ! Bây giờ Pháp mất nước rồi, Không đủ sức, không đủ người trị ta. Giặc Nhật Bản thì mới qua; Cái nền thống trị chưa ra mối mành. Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh, Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà. Ấy là nhịp tốt cho ta, Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông. Người chúng ít, người mình đông Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên. Hỡi ai con cháu Rồng Tiên ! Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau. Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu, Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn. Người giúp sức, kẻ giúp tiền, Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta. Trên vì nước, dưới vì nhà, Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh. Chúng ta có hội Việt Minh Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh Mai sau sự nghiệp hoàn thành Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ! Những năm quan trọng : 2879: Hồng Bàng 111: Tàu lấy nước ta lần đầu Trước Tây lịch 40: Hai Bà Trưng đánh Tàu 248: Bà Triệu Ẩu khởi nghĩa 544: Vua Lý đánh Tàu 603: Tàu lấy nước ta 939: Vua Lê khởi nghĩa 968: Đời vua Đinh (12 năm) 981: Đời vua Tiên Lê (29 năm0 1010: Đời vua Hậu Lý (215 năm) 1073: Lý Thường Khiệt đánh Tàu 1225: Đời vua Trần (175 năm) 1283: Trần Hưng Đạo đánh Tàu 1407: Tàu lấy nước ta 1427: Vua Lê khởi nghĩa 1543: Đời vua Hậu Lê (360 năm) 1545: Vua Lê, chúa Trịnh 1771: Đời vua Tây Sơn (24 năm) 1789: Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu 1794: Gia Long thông với Tây 1847: Tây bắt đầu đánh nước ta 1862: Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây 1889: Ông Đề Thám khởi nghĩa 1893: Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa 1916: Trung Kỳ khởi nghĩa 1917: Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa 1930: Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa 1940: Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa 1941: Nam Kỳ khởi nghĩa 1945: Việt Nam độc lập |
Bác Tun thật là cực công quá! Một việc thật nhiều công sức và ý nghĩa...
|
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG (tiếp)
... Vua nghe vậy, lòng mới an Bèn cùng tả hữu lo bàn quân cơ Quân giặc đóng dọc sông Lô Cướp phá, vơ vét xác xơ cả miền Dân ta không để giặc yên Đánh du kích, giặc sợ điên, tức cuồng Vua lui quân về Thiên Trường Họp với các tướng, tính đường phản công Tần bàn :"Giặc ở Thăng Long Muốn đánh, mở rộng đất Mông phía này Tạo thế gọng kìm bao vây Diệt nhà Nam Tống, lấp đầy Trung Nguyên Nhưng nay tình thế biến thiên Kẹt ở đây, sợ mất miền Vân Nam Chúng đang tiến thoái lưỡng nan Lúng túng phương lược, họp bàn thiệt hơn Giờ nếu ta tổng phản công Chắc chắn chúng bỏ Thăng Long chạy về" Vua và Thủ Độ bèn nghe Hợp quân thủy - bộ tiến về kinh đô (Nghi binh Thiên Mạc, Mạn Trù Thủy trại cờ xí toàn bù nhìn rơm Khiến giặc khinh địch, coi thường) Quân ta sáu đạo chia đường về kinh. (Còn nữa) |
--------------------------------------------------------------------------------
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp) ... Quân ta sáu đạo chia đường về kinh. Vua thân nắm đạo thủy binh Ngược sông Hồng tiến đến thành Thăng Long Đổ bộ hữu ngạn sông Hồng Thánh Dực, Thần Sách đánh Đông Bộ Đầu Quân giặc vỡ trận rất mau A-Giu phò mã thua đau Thạch Bàn Khánh Dư thúc quân đánh tràn Ba mũi công phá, giặc tan, máu nhoè Ngột-Lương-Hợp-Thai im re Vội vàng ra lệnh rút về Vân Nam Quân giặc ba vạn kéo sang Ba phần còn một, tan hoang chạy về Qua vùng Quy Hóa sơn khê Hà Bổng chặn đánh, chạy về tả tơi Qua ngày Ông Táo về trời Quân dân nô nức lại dời về kinh Ăn Tết Mậu Ngọ linh đình 1258 Quét sạch giặc dữ, thái bình yên vui Phạt tội, thưởng công từng người Lê Tần công lớn được ngồi gần Vua Lại đem Chiêu Thánh(*) gả cho Cả nước đón Tết ấm no mọi nhà Tháng Hai(1258) có chiếu ban ra : "Giặc vừa bại trận, nhưng mà chưa thôi Nay Vua Thái Tông nhường ngôi Để Thái tử Hoảng được ngồi lên ngai Lo dần công việc lâu dài" Thái Tông lui lại, ở vai Thượng Hoàng. (Còn nữa) (*) : Chính là vợ cũ của Trần Thái Tông, cũng chính là Lý Chiêu Hoàng - vị vua cuối cùng triều Lý. Đời Lý Huệ Tông, vua không có con trai, chỉ có 2 con gái là Chiêu Hoàng và Thuận Thiên. Trần Thủ Độ sắp đặt để Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng, Trần Liễu (cha Trần Quốc Tuấn) lấy Thuận Thiên. Sau Lý Huệ Tông bị điên, bị ép nhường ngôi cho con gái là Lý CHiêu Hoàng lúc đó mới 8 tuổi. Nhân Lý Chiêu Hoàng hay đùa, té nước vào Trần Cảnh, nên Độ bèn phao lên rằng Vua gái nhường "nước" cho chồng, và Nhà Trần tiếp quản ngai vàng như vậy. Trần Cảnh lên ngôi (Thái Tông) nhưng không có con với Chiêu Hoàng, Thủ Độ lại ép Trần Liễu - là anh ruột Cảnh nhừng vợ là Thuận Thiên đang có bầu cho vua, gây nên mối hiềm thù giữ nhánh trưởng và nhánh thứ trong họ Trần. Thái Tông lấy Thuận Thiên (cũng là chị ruột Chiêu Hoàng) rồi, bèn giáng Chiêu Hoàng xuống thành Chiêu Thánh công chúa, và sau chiến thắng Nguyên, đã gả cho Lê Tần (Lê Phụ Trần). Cuộc hôn nhân sau, Chiêu Thánh tìm thấy hạnh phúc với Lê Phụ Trần, và có mấy người con với ông. |
http://i203.photobucket.com/albums/a...nguyenlan1.jpg
Bản đồ minh họa cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (bác mobinam sưu tầm trên mạng giúp, hình của tác giả nguyenlan ) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Thái Tông lui lại, ở vai Thượng Hoàng Đất nước sạch bóng sài lang Nhà nhà yên ấm, mùa màng bội thu Trước dã tâm của giặc thù Triều đình cảnh giác, cương - nhu nhịp nhàng Trần Nhật Duật trấn Đà Giang Quốc Khang, Quang Khải vào Hoan, Diễn rồi Đinh Sửu (1277) Thái Tông về trời Thánh Tông năm tiếp (1278) về ngôi Thượng Hoàng Nhường Nhân Tông lên ngai vàng Hưng Đạo Vương trấn An Bang, Vân Đồn Chẳng bao lâu, trận Nhai Sơn(*) Vua Tống bại trận, ngậm hờn tuẫn thân Tể tướng cho đến quan quân Trầm mình tuẫn tiết, muôn phần bi thương Nhà Nguyên xác lập, hùng cường Diệt xong Nam Tống, tìm đường đánh ta Biết là thống nhất Trung Hoa Nhà Nguyên tất sẽ nhòm qua nước mình Trước sau, hạch sách linh tinh Nhân Tông bèn phái chú mình sang Nguyên Đem cống lễ vật khắp miền Nhún mình xuống trước để xin hiếu hòa Nhà Nguyên mua chuộc sứ ta Phong Trần Di Ái được là Quốc vương Di Ái bạc nhược tầm thường Lê Tuân, Lê Mục cũng phường tham vinh Nghe vua Nguyên, phản vua mình Quân Nguyên hộ tống linh đình về Nam Biết tin Di Ái vì tham Làm nhục mệnh chúa, can làm tay sai Triều đình ta sắp đặt bài Phục binh bắt gọn hết loài Việt gian (còn nữa) (*) : Nay thuộc đất Quảng Đông. Trận Nhai Sơn, quân Nam Tống bại trận, vua và Tể tướng Văn Thiên Tường nhảy xuống biển tự vẫn. Sau trân nay, Mông Cổ chiếm trọn Trung Hoa, lập ra triều Nguyên. Thành Cát Tư Hãn khi trước có thói quen giao cho một tướng thống lĩnh một quân đoàn đi đánh chiếm và sau khi bình định được vùng đất đó, thì vị thống soái quân đoàn ấy thường làm vua ở vùng đất chiếm ấy luôn - tất nhiên vẫn thuần phục Hãn. |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Triều đình ta sắp đặt bài Phục binh bắt gọn hết loài Việt gian Vua Nguyên càng lúc càng ngang Quán dịch sứ bộ mở mang thêm nhiều Sứ Nguyên nghênh ngang vào triều Quân Nguyên đốn gỗ đóng nhiều thuyền to Lý Hằng, Lý Quán, Toa Đô Cùng với Ô Mã chực chờ vùng biên Quân, dân ta khắp mọi miền Sẵn sàng chuẩn bị kết liên mọi nhà Tên sứ bộ Sài Thung qua Nghe Ái bị bắt, nạt ta đủ điều Thượng tướng Quang Khải nghênh chiêu Thung nằm Dịch quán đến chiều không ra Hưng Đạo Vương, giả sư già Thung tưởng gián điệp, bèn ra mời vào Ân cần đón tiếp, mời chào Vương bèn cười nói : "tôi nào phải sư" Sài Thung ngượng, mặt đỏ dừ Giở giọng quát nạt y như thằng khùng Hưng Đạo Vương đáp ung dung Cương - nhu kín kẽ, làm Thung tịt ngòi Lính Thung lấy mũi tên, chòi Đầu Vương chảy máu, vẫn ngồi an nhiên Thung sợ, bèn về lại Nguyên Kéo theo phẩm vật qua miền biên cương Gặp phải viên tướng địa phương Đón sứ, bị đánh giữa đường khi xưa Thấy Thung phẩm vật vét vơ Uất hận ngùn ngụt bắn bừa một tên Thung ôm mắt trái thét lên Được lính hộ vệ đeo tên chạy về. Chiều ấy, hai Vua xuống ghe Cùng Trần Quang Khải xuôi về An Bang Gặp Trần Hưng Đạo họp bàn Tính kế khi giặc sắp tràn biên cương (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Chiều ấy, hai Vua xuống ghe Cùng Trần Quang Khải xuôi về An Bang Gặp Trần Hưng Đạo họp bàn Tính kế khi giặc sắp tràn biên cương Lại nói về Hưng Đạo Vương Binh pháp, trận thế, đao, thương gồm tài Thao lược có một không hai Môn khách, gia tướng, toàn người giỏi giang Từ Vạn Kiếp đến An Bang Chí Linh, đến Lục Đầu Giang sóng tràn Quân tinh nhuệ, dân an khang Thủy - bộ luyện tập không màng nắng mưa Trương Hán Siêu lo giấy tờ Yết Kiêu, Dã Tượng quân cơ hơn người Yết Kiêu nổi tiếng tài bơi Dã Tượng, sức khỏe như voi trên rừng Phạm Ngũ Lão cũng anh hùng Tinh thông võ nghệ, giỏi dùng binh thư Hưng Đạo Vương gác chuyện tư Một lòng vì nước, không từ gian nan Khi giặc lăm le kéo sang Vua mở Hội nghị Bình Than - Lục Đầu Tập trung tướng tá, vương hầu Bàn kế chống giặc, trước sau rõ ràng Quốc Toản xuống bến Bình Than Nằng nặc đòi được vào bàn quân cơ Lính canh giữ lại trên bờ Quốc Toản không chịu, la to đòi vào Vua nghe trên bến lao xao Bèn truyền cho lính gác vào trình tâu Khi biết chuyện Hoài Văn Hầu Vua khen ngợi Toản, xoa đầu, thưởng cam (Trên bờ, Toản vẫn hầm hầm Tay bóp nát mất quả cam lúc nào Bèn về may ngọn cờ đào Chiêu mộ trai tráng, sung vào đội quân "Phá cường địch, báo hoàng ân" Cờ thêu sáu chữ, luyện quân miệt mài) (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... "Phá cường địch, báo hoàng ân" Cờ thêu sáu chữ, luyện quân miệt mài Bình Than, trước buổi thứ hai Vua đang đứng ngắm sông dài mênh mang Chợt thấy một chiếc thuyền nan Vun vút lướt sóng, chất than củi đầy Một trung niên, dáng cao, gầy Nón tơi, áo chẽn ngắn tay trên thuyền Vua chợt nhận thấy quen quen Trong lòng nghi hoặc, bèn truyền đuổi theo Thuyền than vẫn lướt vèo vèo Ông lão ngoái đáp :"Tôi theo nghề này Bán than kiếm sống qua ngày Vương hầu hội họp, tôi hay biết gì?" Nghe khẩu khí, Vua càng nghi Không phải quý tộc, chắc gì dám ngang Bèn truyền, đòi chủ thuyền than Thấy : dáng vàng võ, phong trần hằn sâu Ẩn dưới bù xù tóc râu Là vẻ quắc thước vương hầu kinh sư Còn ai khác Trần Khánh Dư Xưa bị tội, phải ẩn cư nơi này Bán than kiếm sống qua ngày (Xưa, Khánh Dư cũng là tay lẫy lừng Đinh Tỵ, thắng trận tưng bừng (1258) Được ghi công lớn khi mừng chiến công Sau, lại mắc tội tư thông Với vợ Quốc Nghiễn(*), lúc (Nghiễn) không có nhà Vua bắt tội, chiếu ban ra: Dùng gậy đánh chết, mới là đáng thân Nhưng Vua nghĩ, Dư công thần Bèn dặn chấp pháp có phần nương tay Đánh cho đau, ốm chục ngày Cắt hết quan tước, đuổi ngay khỏi thành Dư về lại châu Chí Linh Vốn là đất của cha mình(**) khi xưa Đất ấy đồn điền lưa thưa Bổng lộc cũng ít, chẳng vừa đủ ăn Đích thân Dư phải ủ than Tình cờ hôm ấy đi ngang Lục Đầu) Thượng Hoàng gặp Dư, ngẹn ngào Dư khóc, phục xuống lạy chào hai Vua Nhân Tông bèn xá tội xưa Lại cởi áo ngự để đưa Dư choàng Cho vào hội nghị họp bàn (Xưa nay Dư vốn dọc ngang Vân Đồn) Khánh Dư phát biểu hùng hồn Bàn việc quân thuỷ, thiệt hơn rạch ròi: Nước ta chằng chịt sông ngòi Quân thủy cơ động, tiến lui thần tình Lại nhắc phòng mặt Chiêm Thành Đề phòng Nguyên sẽ đánh quành trở lên Giọng Khánh Dư vẫn vang rền Gian khổ vẫn giữ được nền tảng xưa (*) : Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Vương. (**): Trần Phó Duyệt (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Giọng Khánh Dư vẫn vang rền Gian khổ vẫn giữ được nền tảng xưa Quả nhiên, Dư tính không thừa Thông tin mật báo : Nguyên vừa khởi binh Toa Đô đi đánh Chiêm Thành Tạo gọng kìm đánh nước mình phía sau Năm Nhâm Ngọ, từ Quảng Châu (1283) Thủy quân Nguyên kéo đánh vào đất Chiêm Chiêm Thành quân kỷ rất nghiêm Toa Đô đánh mãi, xin thêm quân nhà Vạn rưỡi viện binh kéo qua Gặp cơn bão biển, tan ra muôn đường Toa Đô khốn đốn cùng đường Tiến vào Ô, Lý, gần đường Nghệ An (Thực ra, khi đó Quốc Khang Ngầm gửi lương thảo giúp sang Chiêm Thành) Giặc đóng quân sát nước mình Đốn gỗ dựng thành, cướp phá thảo lương Quan trấn thủ Tĩnh Quốc Vương Điều binh án ngữ, chặn đường vùng biên Cùng lúc, phía Bắc, vua Nguyên Đòi mượn đường bộ đánh miền phía Nam Lại đòi Đại Việt phải kham Chu cấp lương thực - dã tâm rõ ràng Xác định giặc sẽ đánh sang Vua bèn xuống chiếu sẵn sàng toàn dân Trai tráng nô nức sung quân Thích chữ "Sát Thát" tỏ phần quyết tâm Rèn, đúc vũ khí ầm ầm Khí thế sôi sục vang âm mọi làng Hưng Đạo Vương trút tâm can Viết Hịch Tướng Sĩ, bày gan trải lòng Nhậm chức Tiết Chế Quốc Công Thống lĩnh công cuộc quốc phòng toàn dân Dịp ấy sắp Tết Giáp Thân (cuối 1283) Nhà Vua xuống chiếu, ân cần khiêm cung Nêu rõ tình hình giặc hung Mời các bô lão về cung Diên Hồng Gần xa, bô lão nức lòng Đổ về diện kiến mặt rồng tại kinh Vua trình bày rõ việc binh Hỏi các bô lão tình hình ý dân Dưới điện, các cụ hô rần Một lòng quyết đánh đuổi quân giặc thù (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Dưới điện, các cụ hô rần Một lòng quyết đánh đuổi quân giặc thù Cuối năm 1284 26 tháng Chạp, tin từ vùng biên Năm chục vạn quân giặc Nguyên Chia hai cánh lớn, vượt biên tiến vào Thoát Hoan thống lĩnh tối cao Xua quân giặc dữ tràn vào nước ta Một cánh do Bôn-Kha-Đa Vượt Khâu Ôn tiến thẳng qua nước mình Một cánh theo hướng Lộc Bình Qua Lộc Châu, có đại binh cánh này Chỉ huy là Xa-Tac-Tai Cùng Lý Bang Hiến, lệnh bài tiên phong Quân ta ít, quân giặc đông Ải Kha Ly mất chỉ trong một ngày Quân Nguyên thừa thắng tiến ngay Vượt qua Bản Động, xuống ngay Nội Bàng Cánh phía Tây, từ Khâu Ôn Qua ải Pha Lũy đánh dồn Chi Lăng Hưng Đạo Vương trấn Nội Bàng Thoát Hoan cử sứ giả sang dụ hàng Nhưng tê sứ giựac vừa sang Liền bị gọt tóc và quăng trở về Thoát Hoan tức giận hầm hè Thúc quân từng lớp, từng bè tấn công (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Thoát Hoan tức giận hầm hè Thúc quân từng lớp, từng bè tấn công Quân giặc tràn lên, cậy đông Dần dần chọc thủng được phòng tuyến ta Thoát Hoan bèn chia quân ra Hai cánh thủy - bộ, đánh ra Lục Đầu Chiến trường vang tiếng gươm đao Quân Trần lăn xả đánh vào giặc hung Chặn từng hẻm núi, khúc sông Giặc tiến rất chậm, dù đông hơn nhiều Từ sáng sớm đến sẩm chiều Nội Bàng thất thủ, ta nhiều thương vong Cản chậm được bước giặc hung Hưng Đạo Vương rút lui cùng ít quân Đến gần ngã ba bãi Tân Đường nhỏ, giặc lại đuổi gần sau lưng Có người bèn bàn với Vương Nên rẽ đường khác mà đừng ra sông Sợ giặc đuổi kịp, hại ông Đại Vương nghe vậy trong lòng đắn đo Dã Tượng hiểu chủ, bèn dò : "Đại Vương lúc trước dặn dò Yết Kiêu Đề phòng thế trận xoay chiều Phục thuyền đón sẵn, nay Kiêu còn chờ?" Vương đáp :"Chính thế, ta lo Muộn rồi, Kiêu có còn chờ hay không?" (Giặc nhằm Vạn Kiếp tấn công Quân Trần chủ ý là không đối đầu Không dốc toàn lực đánh nhau Chia tách quân giặc hai đầu Bắc, Nam Ngăn Toa Đô với Thoát Hoan Tìm kế đánh trả, diệt dần giặc hung) Biết Yết Kiêu rất nghĩa trung Dã Tượng bèn khẳng định cùng Đại Vương : "Nhận mật lệnh đón dọc đường Yết Kiêu nhất định chờ Vương đến cùng" Vương nghe thế, bèn yên lòng Tiếp tục đường nhỏ hướng sông rút dần Thầy trò kịp đến bãi Tân Giặc Nguyên đuổi gấp, sát gần phía sau Yết Kiêu quả vẫn cắm sào Dừng thuyền chờ đợi, trước sau không dời Đại Vương cảm kích buột lời : "Chim Hồng, chim Hộc trên trời cao xanh Bay cao, nhờ ở bên mình Sáu hàng lông cánh kiên trinh, vững vàng" (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Đại Vương cảm kích buột lời : "Chim Hồng, chim Hộc trên trời cao xanh Bay cao, nhờ ở bên mình Sáu hàng lông cánh kiên trinh, vững vàng" * * * * * * * Giặc phá được ải Nội Bàng Thủy quân Ô Mã tràn sang Lục Đầu Năm thuyền móc lại với nhau Lừng lững như một tòa lầu trên sông Bấy giờ, vào dịp cuối đông Nước rất lạnh, giặc chỉ phòng bên trên Bàn kế, Yết Kiêu đứng lên Lập đội cảm tử đục thuyền giặc hung Lặn xuống nước lạnh đêm đông Đục vỡ thuyền giặc, việc xong, rút liền Làm kinh sợ đám giặc Nguyên Đang đêm bỗng chốc chìm thuyền, chết quân Giữa Tết, không được vui xuân Nơm nớp phòng bị quân Trần tấn công Thuyền cứ chìm dần dưới sông Ngày không dám nghỉ, đêm không dám nằm Xa-Tác-Tai bèn lệnh ngầm Lập đội thuyền nhỏ, lưới ngầm thả sâu Đính sẵn cả loạt móc câu Khi chiến hạm đắm, phải mau quăng chài Tết Ất Dậu, đêm mùng Hai (1285) Yết Kiêu lỡ dính lưới chài giặc Nguyên Bị chúng bắt, trói lên thuyền Yết Kiêu chẳng hãi, điềm nhiên lạnh lùng Thoát Hoan thấy chàng kiêu hùng Vạm vỡ, mắt sáng, oai phong muôn phần Giữ trại giặc, vẫn bình thân Trong lòng tướng giặc có phần mến yêu Bèn sai cởi trói Yết Kiêu Mời vào yến tiệc, ra chiều nể nang (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Bèn sai cởi trói Yết Kiêu Mời vào yến tiệc, ra chiều nể nang Trong bụng thầm tính mưu gian Định dùng vật chất dụ hàng Yết Kiêu Yết Kiêu chẳng đợi mời nhiều Uống rượu, bốc thịt ra điều tự nhiên Thoát Hoan hỏi, trả lời liền : "Yết Kiêu ta, chỉ là tên tầm thường Đưới trướng Hưng Đạo Đại Vương Người tài đầy rẫy, đâu thường như ta Ta bị bắt, chẳng qua là Đôi quân cảm tử bên ta quá nhiều Cứ mỗi lần cuối giờ chiều Lại tranh nhau được xuất chiêu đục thuyền Chẳng ai nhường ai, cho nên Dạo này phải cậy đến quyền bắt thăm Ta bắt trúng, lại yếu tầm Chứ vào người khác, ngươi làm được chi?" Thoát Hoan trong bụng hồ nghi : "Ngươi chỉ ta bắt đám đi đục thuyền?" Yết Kiêu trả lời điềm nhiên : "Tối họ xuất phát, ta liền dẫn đi" Nói xong, ăn uống tì tì Thản nhiên chẳng ngó ngàng gì giặc Nguyên Lý Bang Hiến lập 10 thuyền Yết Kiêu chỉ hướng về miền lách, lau 2 tên đứng sát phía sau Hiến giương cung sẵn, nhằm đầu Yêt Kiêu (Chúng vẫn đề phòng mắc mưu) Biết thế, trong bụng Yết Kiêu cười thầm Đến đoạn lau sậy um tùm Hai tay Kiêu thọc mắt đâm hai thằng Nhanh như chớp giật cái nhoằng Hiến chưa kịp bắn, Kiêu băng khỏi thuyền Giặc bủa ra, sẵn cung tên Chờ Kiêu ngoi thở là liền buông dây Bỗng chúng nghe vẳng đâu đây Một tiếng cười lớn, giọng đầy khinh khi : "Cám ơn Lý Bang Hiến mi Dùng chiến hạm chở ta đi về nhà" Tiếng cười theo gió vang xa Lý Bang Hiến giận, sợ, la quân về (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Tiếng cười theo gió vang xa Lý Bang Hiến giận, sợ, la quân về Sau đó quân giặc nhất tề Tấn công Vạn Kiếp, hai bề giáp công Đại quân giặc Nguyên cậy đông Thủy, bộ lớp lớp tấn công quân Trần Hưng Đạo Vương đã ém quân Đánh chặn, đánh tỉa, địch dần tiêu hao Nhưng giặc đông, tiến ào ào Vương không ham đánh, rút vào Thăng Long (Quân ta rút giữa đêm đông Nhẹ nhàng, nhanh gọn, giặc không biết gì) Sáng sau, biết ta rút đi Thoát Hoan lồng lộn, tức thì đuổi ngay Quân ta đoán trước việc này Đã thả chướng ngại vật đầy trên sông Hoan sai đại tướng Lý Hằng Nắm cánh quân thủy tiến bằng đường sông Y dẫn quân bộ tấn công Cùng với Ô Mã đánh vùng Gia Lâm (Vốn Thoát Hoan có dã tâm Đuổi nhanh, đánh gấp, mong cầm Thăng Long) Sai làm cầu phao sang sông (sông Đuống) Tính đánh liên tục mà không cho ngừng Khánh Dư thấy thế, cả mừng Cho quân lặn xuống chặt thừng cầu phao Binh lực địch lại tiêu hao Bè tre quăng giặc ào ào xuống sông Quốc Toản nhân đó tấn công Đâm tả, thọc hữu, mà không đối đầu Làm giặc không thể tiến mau Làm cho tướng giặc đau đầu nghĩ mưu Sau, y cho bắc lại cầu Dùng xích sắt cột, nối nhau từng bè Liên tục bắn tên chắn, che Ì ạch mãi, cũng vượt bè qua sông Đóng ở bờ Bắc sông Hồng Lúc này ta đã chắn Đông Bộ đầu Bảo vệ Thăng Long phía sau Trong là thuyền chiến, ngoài rào cọc tre Máy bắn đá đặt trên đê Cung tên, giáo mác lăm le sẵn sàng Mỗi lần giặc tấn công sang Tiếng hô xung sát vang vang sông Hồng Ta biết khó giữ Thăng Long Khi Lý Hằng tới, giặc đông thêm nhiều (Còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Ta biết khó giữ Thăng Long Khi Lý Hằng tới, giặc đông thêm nhiều Nhưng để sơ tán quan triều Di tản dân chúng, cần nhiều thời gian Vua bèn kiếm một viên quan Có tài ứng đối, để sang cầu hòa Đỗ Khắc Chung bèn tiến ra : "Thần tuy tài mọn, nhưng mà xin đi" Vua bảo :"Gặp Ô Mã Nhi Giả cầu hòa để ta di tản dần Nhà ngươi liệu có đủ gan Ứng đối với tướng giặc tàn hung kia?" Khắc Chung thướng mạo thô bè Nét mặt gồ ghề, miệng rộng, mũi thô Mắt đen nhìn thẳng, trán dô Phong thái điềm tĩnh tựa hồ nước sâu Nghe Vua hỏi, Chung bèn tâu : "Sở học, sức vóc thần đâu ra gì Nhưng đã nhận trọng mệnh thì Rừng gươm, biển lửa không gì từ nan" Nói xong, cầm thư Vua Trần Một mình thuyền nhỏ tiến sang trại thù Mắt nhìn thẳng, lưng không gù Rẽ hai hàng giáo từ từ tiến lên Thái độ đĩnh đạc, thản nhiên Tiến thẳng đến chỗ tướng Nguyên đang chờ Gặp Ô Mã, Chung nói to : "Xin ngài thống lĩnh nhận thư cầu hòa" Trại giặc gươm giáo sáng lòa Giọng Chung vang, ấm, rất là hiên ngang Ô Mã Nhi, vốn hung tàn Nhưng trong bụng đã mấy phần nể Chung Nói :"Muốn giao chiến tới cùng Thư cầu hòa chớ đem dùng ở đây" Khắc Chung bèn đáp lời ngay : "Hòa - sinh lễ nghĩa, Chiến - gây hiềm thù Quốc vương tôi, vốn ôn nhu Chọn đường hòa hiếu, ngàn thu vững bền" Nhi hạch :"Hoàng đế nhà Nguyên Là bậc kiệt hiệt khắp miền Đông - Tây Người Thát kiêu dũng, hùng oai Vua ngươi vô lễ, lại sai quân mình Thích chữ Sát Thát nhờn khinh Tội ấy to lắm với binh thiên triều" Chung đáp :"Nếu chó cắn liều Khi người lạ đến, là điều dĩ nhiên" Ô Mã Nhi không hiểu liền Lặng thinh ngồi mãi. Chung bèn nói thêm : "Đó, ngài thống lĩnh nghĩ xem, Chó cắn người lạ được xem là thường Dân tôi trung với Quốc vương Tự thích chữ ấy, cũng thường mà thôi Ngay như ở cánh tay tôi Cũng có chữ ấy" - nói rồi, vén ra. Nhi lại hỏi :"Đại quân ta Từ xa kéo tới, sao nhà vua ngươi Không xem gương các nước người Tự lên biên giớ, trói người, hàng ta? Lại còn chống lệnh, đánh qua Liệu càng bọ ngựa được là mấy hơi?" Khắc Chung ôn tồn trả lời : "Nước tôi tuy nhỏ, mấy đời gần đây Lập nền tự chủ đến nay Đều bảo nhau giữ, chung tay đến cùng Đầu hàng, dẫu có được dung Nhục kia lưu sử sách cùng thiên thu Vả lại, nếu biết ôn nhu Nhỏ triều cống Lớn, muôn thu hiếu hòa Các triều đại trước từng qua Nay, xin quý quốc hiếu hòa không xong Người ta nói : thú đường cùng Quay đầu chống lại cực hung là thường Huống chi, người - lúc cùng đường Đấu tranh chống lại, là thường vậy thôi" Khắc Chung lời cứ nối lời Ý tứ chặt chẽ không lơi chút nào Ô Mã Nhi cất giọng cao: "Quân ta mượn lối đánh vào nước Chiêm Nghe lời, mọi việc sẽ yên Nhược bằng không, sẽ bị nghiền ra tro" Khắc Chung thản nhiên không lo Cáo từ tướng giặc, tự do ra về Được một lát, Ô Mã Nhi Nghĩ lại, kêu bắt, Chung đi xa rồi (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Được một lát, Ô Mã Nhi Nghĩ lại, kêu bắt, Chung đi xa rồi Lại nói, chiến sự sục sôi Vua Nguyên sốt ruột, đừng ngồi không yên Bèn mở một cánh quân thêm Na-Rút-Đin kéo qua miền Tuyên Quang Nhật Duật đem quân chặn ngang Dùng thủy quân đánh, nhịp nhàng rút lui Thuyền ta thuận gió trôi xuôi Kỵ binh giặc đuổi bám đuôi trên bờ Đến mấy khúc sông quanh co Duật thấy giặc tụt lại bờ xa xa Bụng nghi giặc có kế tà Bèn sai tế tác bung ra dò tìm Quả nhiên là Na-Rut-Đin Cho đội kỵ mã tắt miền Châu Phong Chặn đón gần ngã ba sông Phía sau đuổi lại, tính công hai đầu Nhưng giặc kia có ngờ đâu Duật đã giấu ngựa từ lâu trong rừng Bất ngờ, thuyền cập Sơn Đông Lên ngựa, cả đạo ung dung rời thuyền Rút trong trật tự, lặng yên Men chân Tam Đảo qua miền Hồng Châu Rồi theo kế hoạch dài lâu Duật rút cả đạo về mau Thiên Trường * * * * * * * Lại nói, trước thế giặc cường Quốc Công Tiết Chế tính đường lui quân Rút hoàng gia và toàn dân Rồi tiếp tục rút đại quân sau cùng Xuôi dọc theo con sông Hồng (Lúc này quân thủy Lý Hằng vừa sang) Thăng Long lúc này bỏ hoang Đồ đạc, lương thực đều mang đi cùng Hoan vào, chè chén tiệc tùng Thấy thành trống rỗng, trong lòng bất an Hôm sau y lại kéo quân Lập trại ở tận bến Đông Bộ đầu Hưng Đạo Vương rút ít lâu Quân Trần Quốc Toản từ đâu tìm về Thăng Long thiếu thốn đủ bề Thoát Hoan buộc phải đánh về hạ lưu (sông Hồng) (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Thăng Long thiếu thốn đủ bề Thoát Hoan buộc phải đánh về hạ lưu (sông Hồng) Bãi Đà Mạc, Bảo Nghĩa Hầu Dàn quân chặn giặc tuyến đầu quân ta Thọ địch, trận đánh mở ra Giặc đông hơn hẳn quân ta nhiều lần Bình Trọng uy vũ như thần Dẫn đội cảm tử quân Trần xung phong Quyết tâm chặn giặc lập công Cản giặc tiến sát tuyến phòng thủ ta Quân Trần tuy một chọi ba Tả xung hữu đột như là thiên binh Tất cả đều quyết liều mình Giết giặc giữ nước, kiên trinh muôn phần Quyết tâm vì nước xả thân Dù ít hơn hẳn bên phần giặc Nguyên Người trước ngã, người sau lên Tiếng hô "Sát Thát" vang rền bãi sông Về sau, quân giặc quá đông Dần dần khép chặt mấy vòng bao vây Bình Trọng đánh không ngơi tay Đao ông chớp nhoáng, giặc bay mấy đầu Trần Bình Trọng đánh đến đâu Giặc Nguyên sợ vía, rụt đầu dạt ra Địch dần giết hết quân ta Còn mình Bình Trọng, máu nhòa toàn thân Dáng ông cao lớn như thần Giáp trụ đỏ máu, thập phần oai phong Một mình, vẫn không sờn lòng Dù giặc lớp lớp, vòng trong vòng ngoài Nhìn quân, thấy chẳng còn ai Vẫn xông vào giặc, tay quài đường đao Nhắm chu sư* địch nhảy vào Tả xung hữu đột, ánh đao đỏ loè Chém giặc đứa chết, đứa què Một mình xung sát, không hề núng nao Chẳng may, ông tuột tay đao Bèn nắm cẳng giặc, đổi đao thành chuỳ Quân Nguyên khiếp sợ thần uy Đứa văng xuống nước, đứa thì nát xương Sau cùng, do nhiều vết thương Ông bị giặc bắt khi đương đánh nhầu Thoát Hoan dõi trận từ đầu Cũng khiếp sợ Bảo Nghĩa Hầu uy phong Khâm phục vị tướng anh hùng Y tính mua chuộc, lại dùng mưu gian Tự tay cởi trói, mời ăn Bình Trọng vẫn đứng, chẳng cần để tâm Hoan hỏi chuyện, ông lặng câm Y dụ về Bắc, cho làm tước Vương Trọng quắc mắt, bạnh cằm vuông, Quát :"Đã bị bắt, còn đường chết thôi Hà tất phải hỏi lôi thôi Hà tất bày đặt ra mời rượu cơm? Ta thà làm quỷ nước Nam Vương đất Bắc, chẳng thèm làm đâu bay" (Và câu nói nổi tiếng này Đi vào sử sách không ngày nào phai) Biết Trọng không thể chuyển lay Thoát Hoan bực tức bèn sai chém đầu Mắt không chớp, mày không chau Ông rất bình thản vươn đầu ung dung Hoan thấy, thầm nhủ trong lòng : "Đất này nhỏ thật, nhưng không tầm thường Văn tài như Đỗ Khắc Chung, Võ tướng lẫm liệt, chết không chau mày Muốn thắng được dân tộc này Thật không hề dễ mảy may chút nào" Tin Trọng tử tiết đưa vào Quân dân cả nước ngẹn ngào khóc thương Vua truy phong ông tước Vương Kêu gọi cả nước noi gương diệt thù (*) : Một dạng soái thuyền của địch (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Tin Trọng tử tiết đưa vào Quân dân cả nước ngẹn ngào khóc thương Vua truy phong ông tước Vương Kêu gọi cả nước noi gương diệt thù Vua Nguyên tăng viện Toa Đô Lệnh đánh Ô, Lý, tiến vô nước mình Quân Trần nay đã lui binh Ưu tiên củng cố Ninh Bình phía sau Trần Nhật Duật được cử vào Giúp Quốc Khang trấn địa đầu Nghệ An Quang Khải cũng kéo quân sang Thánh Hóa, giúp Kiện chặn đàng giặc Nguyên Ở vùng Thiên Trường, Trường Yên Bố trí trận địa chạy xuyên vào rừng Thủy quân trấn giữ sông Hồng Lại sai Ngũ Lão hợp cùng Khánh Dư Về Vạn Kiếp, đợi thời cơ Tạo mũi dùi thọc bất ngờ sau lưng (Trước đó, Thế Lộc vẫy vùng Hoạt động, khống chế cả vùng phía Đông) Thoát Hoan lo lắng trong lòng Bèn dốc toàn lực tấn công Thiên Trường (Một mặt xin thêm quân lương Hẹn Toa Đô cũng tìm đường đánh ra) Mưu : hai mặt kẹp quân ta Tình thế lúc đó thật là nguy nan Toa Đô tiến đánh Nghệ An Quân mới tăng viện, hàng đàn kéo sang Nhật Duật cùng với Quốc Khang Thêm cả Quốc Toản cùng dàn trận ra Địch mạnh hơn hẳn quân ta Ba người cản địch, nhưng mà không xong Đành cho quân rút vào rừng Toa Đô thừa thắng, tưng bừng kéo ra Tấn công Thanh Hóa quân ta Trần Kiện hèn nhát bò ra xin hàng (Kiện là con của Quốc Khang Bất mãn Đức Việp * mà hàng Toa Đô) Vì Kiện phản bội bất ngờ Nên quân Đức Việp thua to trận này Thừa thắng, giặc tiến tiếp ngay Bất ngờ, Quang Khải phải quay vào rừng Toa Đô tiến đánh không ngừng Chẳng mấy, chiếm trọn cả vùng Diễn, Hoan (còn nữa) (*) Chương Hiến Hầu Trần Kiện, là con trai Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang, vốn có hiềm khích với Hoàng tử Tá Thiên Vương Trần Đức Việp (con trai vua Thánh Tông)trong việc phong Vương, Hầu từ trước. |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Toa Đô tiến đánh không ngừng Chẳng mấy, chiếm trọn cả vùng Diễn, Hoan Hai mặt, giặc dữ đánh tràn Tình thế bất lợi, nguy nan bội phần Hai Vua đành phải lui quân Thiên Trường cố thủ, thập phần mong manh Mật sai người đi thật nhanh Gọi quân Vạn Kiếp tốc hành giải vây Tình thế nguy ngập từng ngày Thế cuộc sắp mất vào tay giặc thù Đau lòng, Vua gọi An Tư (*) Kể rõ tình thế hiện như thế nào : "Thế giặc như lũ dâng cao Chỉ còn một cách nhờ vào em ta Hy sinh danh tiết, cầu hòa Cứu vãn tình thế nước nhà nguy nan" Công chúa khóc, nghĩ thương thân Rồi nàng khẳng khái nhận phần hy sinh : "Em xin theo lời vương huynh Cứu được quốc nạn, thân mình kể chi" Vua than :"Thương phận nữ nhi Đành đau lòng để em đi chuyến này Chẳng lẽ ta tự trói tay Hàng giặc giống Kiện? Nhục thay muôn đời Hoặc dù liều đánh tơi bời Quốc gia, dòng tộc mất nơi trận này? An nguy xã tắc tới đây Chỉ còn trông cậy vào tay em rồi Thành, bại là ở ý trời Còn nước, còn tát - mấy lời gửi em" An Tư gạt lệ hỏi thêm : "Hy sinh vì nước thì em sẵn sàng Em sẽ cố dụ Thoát Hoan Mong làm giặc dữ dừng quân mấy ngày Tiết Chế không kịp về đây(**) Thì liệu diễn biến việc này ra sao?" Vua nắm tay em nghẹn ngào : "Quốc Công Tiết Chế sẽ vào đến ngay Chỉ cần giữ được 3 ngày Mong em cố gắng, công này khắc ghi" Rồi Vua sai Trần Dương(***) đi Sang gặp sứ giặc xin ghi hiếu hòa Sau đó đưa An Tư qua Lại gửi vàng bạc làm quà thành hôn. (còn nữa) - (*) : Công chúa An Tư là em gái út vua Thánh Tông - (**) : Quốc Công Tiết Chế trước đó đã về Vạn Kiếp cùng Phạm Ngũ Lão, lo việc tập hợp, gây dựng lại quân sau khi quân Nguyên phá Vạn Kiếp. - (***) : Trung Hiến Hầu Trần Dương |
Topic này đã góp phần làm ngày hội Spamist's day hôm qua 1/4/2009 thêm vui. Nó đã hoàn thành nhiệm vụ. Quả là nhân Spamist' day mà nó sinh động hơn lên. Nay khóa lại thôi. Sử thì qua rồi, ai cũng biết cuối cùng kết quả thế nào.
|
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:08 AM. |
Powered by: vBulletin v3.x.x
Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.