![]() |
KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ
Hôm nay mình mở ra chủ đề mới này, mang tên KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ.
Đại khái nó thế này, chắc các bạn đọc chuyện, xem phim ngày xưa - ví dụ như "Tiểu Lý Phi Đao" - thường thấy trong các Tửu quán, thường có những người kể chuyện (như ông cháu Tôn Tiểu Hồng chẳng hạn). Nay trong chuyên mục VĂN NGHỆ - THƠ CA, mình cũng tính mở mục kể chuyện bên cạnh mục Tửu quán. Hị hị, so sánh như thế, thật có nhiều bất cập - vì đây là kể chuyện về lịch sử chống giặc của cha ông ta. Nhưng ... đại khái nó thế. Một phần nữa, cũng vì mục đích "dân ta phải biết Sử ta", nên mới mở ra mục này. Thực ra câu chuyện này, tớ đã "đi kể" rồi, nhưng đây là "nhà mình", với lại nó là của mình, nên cũng đem ra kể phục vụ bà con. Nó dài lắm, mỗi lần chỉ "kể" được một đoạn thôi Giờ xin bắt đầu, câu chuyện sắp kể mang tên : BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG
Lật xem lịch sử cha ông Ngày xưa thắng giặc Nguyên - Mông ba lần Chuyện xảy ra đầu thời Trần Mông - Thát khi đó muôn phần hung hăng Vó ngựa vượt khỏi sông Hằng Thành Cát suýt nữa đạp bằng châu Âu Nhà Trần dựng nghiệp chưa lâu Đế quốc Mông Cổ tiến vào Trung Nguyên Kim diệt, Nam Tống ngả nghiêng Quân Mông một nhánh thọc miền Vân Nam Vua Đại Lý sớm đầu hàng Quân Mông Cổ tiến thẳng sang nước mình Ngột-Lương-Hợp-Thai điểm binh Dẫn theo ba vạn kỵ binh kiêu hùng (Vào năm Đinh Tỵ, cuối đông Nhằm năm thư 7 - Nguyên Phong triều Trần) năm 1257 Thế giặc tiến mạnh muôn phần Các lộ biên giới dần dần lui quân Vua Thái Tông bèn đích thân Đem quân chặn giặc ở gần sông Lô (Ở kinh, Quốc mẫu Linh Từ Lo rút hoàng tộc, anh thư vẹn tuyền) Đụng trận ở Bình Lệ Nguyên Quân Mông đóng gấp bè, thuyền vượt sông Tướng Triệt-triệt-đô tiên phong Không đánh trực diện, đánh vòng sườn ta Thái Tông cưỡi voi xông ra Thúc quân đánh giặc rất là oai phong Nhưng vốn thiện chiến, quân Mông Vẫn né trực diện, đánh vòng hậu quân (còn nữa) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG (tiếp)
... Nhưng vốn thiện chiến, quân Mông Vẫn né trực diện, đánh vòng hậu quân Dẫu hậu quân rối, Lê Tần Vẫn bình tĩnh chặn đánh quân giặc thù Trung quân giặc vượt sông Lô Dồn sang lớp lớp tự hồ sóng hung Quân Trần bị ép vào thung Vẫn đánh quyết liệt anh hùng hiên ngang Sáu lộ quân nhà Vua mang Bung ra chiến đấu chẳng màng tiếc thân Tần khuyên Vua hãy lui quân Tránh thế giặc mạnh, lực quân bảo toàn Đúng lúc, Cự Chích tử thương Quân giặc ào lại tính đường hại Vua Tên giặc bắn tới như mưa Lê Tần múa mộc xông bừa ra che Thái Tông dẫn quân lui về Tần đi chặn hậu, trổ khoe oai thần Quân Mông khiếp sợ oai Tần Quân ta vừa kịp rút dần về sau Vượt qua ngã ba sông Cầu Giặc vẫn đuổi rát phía sau ào ào Tần bèn cho phá cầu phao Quân ta rút hết, giặc vào Thăng Long Lúc này thành trống, nhà không Dân tình rút hết ra vùng ngoại vi Tể tướng Nhật Hiệu rút đi Bị giặc truy đuổi, Hiệu thì sợ run Gặp Vua vẫn sợ mất khôn Tính chuyện "nhập Tống" bảo tồn tấm thân Vua giận lắm, nhưng phân vân Quay sang tiếp tục hỏi Trần Thái sư(*) Trần Thủ Độ giận, hầm hừ : "Tể tướng sợ chết, hèn như vậy à? Khi nào đầu Thủ Độ ta Chưa rơi xuống đất, Quan gia(**) khỏi bàn" Vua nghe vậy, lòng mới an Bèn cùng tả hữu lo bàn quân cơ (còn nữa) (*) : Thái sư Trần Thủ Độ, cũng là chú vua Thái Tông (**) : Cách gọi Vua ở thời Trần |
Để tiện cho mọi người nắm rõ các cột mốc thời gian lịch sử khi theo dõi đề tài KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ của pác Tunbo, xin phép được đăng lại bài “Lịch sử nước ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác năm 1941. Chỗ màu đỏ là thời điểm bắt đầu của đề tài KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ của pác Tunbo.
LỊCH SỬ NƯỚC TA Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà. Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang Thiếu niên ta rất vẻ vang Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời. Tuổi tuy chưa đến chín mười Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương. An Dương Vương thế Hùng Vương Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân. Nước Tàu cậy thế đông người Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam Quân Tàu nhiều kẻ tham lam Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi? Hai Bà Trưng có đại tài Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian Ra tay khôi phục giang san Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta Tỉnh Thanh Hoá có một bà Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi. Tài năng dũng cảm hơn người Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương. Phụ nữ ta chẳng tầm thường Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời. Kể gần sáu trăm năm giời Ta không đoàn kết bị người tính thôn. Anh hùng thay ông Lý Bôn Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người. Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền. Vì Lý Phật Tử ngu hèn Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta. Thương dân cực khổ xót xa Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu. Vì dân đoàn kết chưa sâu Cho nên thất bại trước sau mấy lần. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm. Đến hồi thập nhị sứ quân Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn. Động Hoa Lư có Tiên Hoàng Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh. Ra tài kiến thiết kinh dinh, Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời. Lê Đại Hành nối lên ngôi Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành. Vì con bạo ngược hoành hành Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương. Công Uẩn là kẻ phi thường Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta. Mở mang văn hoá nước nhà Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân. Lý Thường Kiệt là hiền thần Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành. Tuổi già phỉ chí công danh Mà lòng yêu nước trung thành không phai. Họ Lý truyền được chín đời Hai trăm mười sáu năm giời thì tan. Nhà Trần thống trị giang san, Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài, Quân Nguyên binh giỏi tướng tài: Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu, Tung hoành chiếm nửa Âu châu Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la, Lăm le muốn chiếm nước ta Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ, Hải quân theo bể kéo đi, Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm. Dân ta nào có chịu hèn Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu. Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu, Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang. Mênh mông một dải Bạch Đằng Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh, Hai lần đại phá Nguyên binh, Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời. Quốc Toản là trẻ có tài, Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền Mấy lần đánh thắng quân Nguyên Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung. Thật là một đấng anh hùng. Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo. Đời Trần văn giỏi võ nhiều Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh. Mười hai đời được hiển vinh, Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi. Cha con nhà Hồ Quý Ly, Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên. Tình hình trong nước không yên, Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu, Bao nhiêu của cải trân châu, Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn. Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn. Mấy phen sông Nhị núi Lam, Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng. Kìa Túy Động nọ Chi Lăng, Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành. Mười năm sự nghiệp hoàn thành, Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan. Vì dân hăng hái kết đoàn, Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng. Vua hiền có Lê Thánh Tôn, Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành. Trăm năm truyền đến cung hoàng, Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi. Bấy giờ trong nước lôi thôi, Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà, Bảy mươi năm vạn can qua Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi. Từ đời mười sáu trở đi, Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau, Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng. Dân gian có kẻ anh hùng, Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn, Đóng đô ở đất Quy Nhơn, Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền Nhà Lê cũng bị mất quyền, Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu, Ông đà chí cả mưu cao, Dân ta lại biết cùng nhau 1 lòng. Cho nên tàu dẫu làm hung, Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà. Tướng tây Sơn có một bà, Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân, Tay bà thống đốc ba quân, Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là. Gia Long lại dấy can qua, Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài. Tự mình đã chẳng có tài, Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây. Nay ta mất nước thế này, Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà, Khác gì cõng rắn cắn gà, Rước voi dầy mả thiệt là ngu si. Từ năm Tân Hợi trở đi, tây đà gây chuyện thị phi với mình. Vậy mà vua chúa triều đình, Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai. nay ta nước mất nhà tan Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn. Năm Tự Đức thập nhất niên, Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây. Hăm lăm năm sau trận này, Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan, Ngàn năm gấm vóc giang san, Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây ! Tội kia càng đắp càng đầy, Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng. Nước ta nhiều kẻ tôi trung, Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương. Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương, Cùng thành còn mất làm gương để đời. Nước ta bị Pháp cướp rồi, Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng; Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương. Mấy năm ra sức cần Vương, Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên, Giang san độc lập một miền, Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành. Anh em khố đỏ, khố xanh, Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa, Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa, Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn. Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu. Nam Kỳ im lặng đã lâu, Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây. Bắc Sơn đó, Đô Lương đây! Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn. Xét trong lịch sử Việt Nam, Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng. Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông, Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên. Ngày nay đến nỗi nghèo hèn, Vì ta chỉ biết lo yên một mình. Để người đè nén, xem khinh, Để người bóc lột ra tình tôi ngươi ! Bây giờ Pháp mất nước rồi, Không đủ sức, không đủ người trị ta. Giặc Nhật Bản thì mới qua; Cái nền thống trị chưa ra mối mành. Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh, Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà. Ấy là nhịp tốt cho ta, Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông. Người chúng ít, người mình đông Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên. Hỡi ai con cháu Rồng Tiên ! Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau. Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu, Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn. Người giúp sức, kẻ giúp tiền, Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta. Trên vì nước, dưới vì nhà, Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh. Chúng ta có hội Việt Minh Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh Mai sau sự nghiệp hoàn thành Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ! Những năm quan trọng : 2879: Hồng Bàng 111: Tàu lấy nước ta lần đầu Trước Tây lịch 40: Hai Bà Trưng đánh Tàu 248: Bà Triệu Ẩu khởi nghĩa 544: Vua Lý đánh Tàu 603: Tàu lấy nước ta 939: Vua Lê khởi nghĩa 968: Đời vua Đinh (12 năm) 981: Đời vua Tiên Lê (29 năm0 1010: Đời vua Hậu Lý (215 năm) 1073: Lý Thường Khiệt đánh Tàu 1225: Đời vua Trần (175 năm) 1283: Trần Hưng Đạo đánh Tàu 1407: Tàu lấy nước ta 1427: Vua Lê khởi nghĩa 1543: Đời vua Hậu Lê (360 năm) 1545: Vua Lê, chúa Trịnh 1771: Đời vua Tây Sơn (24 năm) 1789: Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu 1794: Gia Long thông với Tây 1847: Tây bắt đầu đánh nước ta 1862: Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây 1889: Ông Đề Thám khởi nghĩa 1893: Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa 1916: Trung Kỳ khởi nghĩa 1917: Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa 1930: Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa 1940: Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa 1941: Nam Kỳ khởi nghĩa 1945: Việt Nam độc lập |
Bác Tun thật là cực công quá! Một việc thật nhiều công sức và ý nghĩa...
|
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN - MÔNG (tiếp)
... Vua nghe vậy, lòng mới an Bèn cùng tả hữu lo bàn quân cơ Quân giặc đóng dọc sông Lô Cướp phá, vơ vét xác xơ cả miền Dân ta không để giặc yên Đánh du kích, giặc sợ điên, tức cuồng Vua lui quân về Thiên Trường Họp với các tướng, tính đường phản công Tần bàn :"Giặc ở Thăng Long Muốn đánh, mở rộng đất Mông phía này Tạo thế gọng kìm bao vây Diệt nhà Nam Tống, lấp đầy Trung Nguyên Nhưng nay tình thế biến thiên Kẹt ở đây, sợ mất miền Vân Nam Chúng đang tiến thoái lưỡng nan Lúng túng phương lược, họp bàn thiệt hơn Giờ nếu ta tổng phản công Chắc chắn chúng bỏ Thăng Long chạy về" Vua và Thủ Độ bèn nghe Hợp quân thủy - bộ tiến về kinh đô (Nghi binh Thiên Mạc, Mạn Trù Thủy trại cờ xí toàn bù nhìn rơm Khiến giặc khinh địch, coi thường) Quân ta sáu đạo chia đường về kinh. (Còn nữa) |
--------------------------------------------------------------------------------
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp) ... Quân ta sáu đạo chia đường về kinh. Vua thân nắm đạo thủy binh Ngược sông Hồng tiến đến thành Thăng Long Đổ bộ hữu ngạn sông Hồng Thánh Dực, Thần Sách đánh Đông Bộ Đầu Quân giặc vỡ trận rất mau A-Giu phò mã thua đau Thạch Bàn Khánh Dư thúc quân đánh tràn Ba mũi công phá, giặc tan, máu nhoè Ngột-Lương-Hợp-Thai im re Vội vàng ra lệnh rút về Vân Nam Quân giặc ba vạn kéo sang Ba phần còn một, tan hoang chạy về Qua vùng Quy Hóa sơn khê Hà Bổng chặn đánh, chạy về tả tơi Qua ngày Ông Táo về trời Quân dân nô nức lại dời về kinh Ăn Tết Mậu Ngọ linh đình 1258 Quét sạch giặc dữ, thái bình yên vui Phạt tội, thưởng công từng người Lê Tần công lớn được ngồi gần Vua Lại đem Chiêu Thánh(*) gả cho Cả nước đón Tết ấm no mọi nhà Tháng Hai(1258) có chiếu ban ra : "Giặc vừa bại trận, nhưng mà chưa thôi Nay Vua Thái Tông nhường ngôi Để Thái tử Hoảng được ngồi lên ngai Lo dần công việc lâu dài" Thái Tông lui lại, ở vai Thượng Hoàng. (Còn nữa) (*) : Chính là vợ cũ của Trần Thái Tông, cũng chính là Lý Chiêu Hoàng - vị vua cuối cùng triều Lý. Đời Lý Huệ Tông, vua không có con trai, chỉ có 2 con gái là Chiêu Hoàng và Thuận Thiên. Trần Thủ Độ sắp đặt để Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng, Trần Liễu (cha Trần Quốc Tuấn) lấy Thuận Thiên. Sau Lý Huệ Tông bị điên, bị ép nhường ngôi cho con gái là Lý CHiêu Hoàng lúc đó mới 8 tuổi. Nhân Lý Chiêu Hoàng hay đùa, té nước vào Trần Cảnh, nên Độ bèn phao lên rằng Vua gái nhường "nước" cho chồng, và Nhà Trần tiếp quản ngai vàng như vậy. Trần Cảnh lên ngôi (Thái Tông) nhưng không có con với Chiêu Hoàng, Thủ Độ lại ép Trần Liễu - là anh ruột Cảnh nhừng vợ là Thuận Thiên đang có bầu cho vua, gây nên mối hiềm thù giữ nhánh trưởng và nhánh thứ trong họ Trần. Thái Tông lấy Thuận Thiên (cũng là chị ruột Chiêu Hoàng) rồi, bèn giáng Chiêu Hoàng xuống thành Chiêu Thánh công chúa, và sau chiến thắng Nguyên, đã gả cho Lê Tần (Lê Phụ Trần). Cuộc hôn nhân sau, Chiêu Thánh tìm thấy hạnh phúc với Lê Phụ Trần, và có mấy người con với ông. |
http://i203.photobucket.com/albums/a...nguyenlan1.jpg
Bản đồ minh họa cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (bác mobinam sưu tầm trên mạng giúp, hình của tác giả nguyenlan ) |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Thái Tông lui lại, ở vai Thượng Hoàng Đất nước sạch bóng sài lang Nhà nhà yên ấm, mùa màng bội thu Trước dã tâm của giặc thù Triều đình cảnh giác, cương - nhu nhịp nhàng Trần Nhật Duật trấn Đà Giang Quốc Khang, Quang Khải vào Hoan, Diễn rồi Đinh Sửu (1277) Thái Tông về trời Thánh Tông năm tiếp (1278) về ngôi Thượng Hoàng Nhường Nhân Tông lên ngai vàng Hưng Đạo Vương trấn An Bang, Vân Đồn Chẳng bao lâu, trận Nhai Sơn(*) Vua Tống bại trận, ngậm hờn tuẫn thân Tể tướng cho đến quan quân Trầm mình tuẫn tiết, muôn phần bi thương Nhà Nguyên xác lập, hùng cường Diệt xong Nam Tống, tìm đường đánh ta Biết là thống nhất Trung Hoa Nhà Nguyên tất sẽ nhòm qua nước mình Trước sau, hạch sách linh tinh Nhân Tông bèn phái chú mình sang Nguyên Đem cống lễ vật khắp miền Nhún mình xuống trước để xin hiếu hòa Nhà Nguyên mua chuộc sứ ta Phong Trần Di Ái được là Quốc vương Di Ái bạc nhược tầm thường Lê Tuân, Lê Mục cũng phường tham vinh Nghe vua Nguyên, phản vua mình Quân Nguyên hộ tống linh đình về Nam Biết tin Di Ái vì tham Làm nhục mệnh chúa, can làm tay sai Triều đình ta sắp đặt bài Phục binh bắt gọn hết loài Việt gian (còn nữa) (*) : Nay thuộc đất Quảng Đông. Trận Nhai Sơn, quân Nam Tống bại trận, vua và Tể tướng Văn Thiên Tường nhảy xuống biển tự vẫn. Sau trân nay, Mông Cổ chiếm trọn Trung Hoa, lập ra triều Nguyên. Thành Cát Tư Hãn khi trước có thói quen giao cho một tướng thống lĩnh một quân đoàn đi đánh chiếm và sau khi bình định được vùng đất đó, thì vị thống soái quân đoàn ấy thường làm vua ở vùng đất chiếm ấy luôn - tất nhiên vẫn thuần phục Hãn. |
BA LẦN ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN-MÔNG (Tiếp)
... Triều đình ta sắp đặt bài Phục binh bắt gọn hết loài Việt gian Vua Nguyên càng lúc càng ngang Quán dịch sứ bộ mở mang thêm nhiều Sứ Nguyên nghênh ngang vào triều Quân Nguyên đốn gỗ đóng nhiều thuyền to Lý Hằng, Lý Quán, Toa Đô Cùng với Ô Mã chực chờ vùng biên Quân, dân ta khắp mọi miền Sẵn sàng chuẩn bị kết liên mọi nhà Tên sứ bộ Sài Thung qua Nghe Ái bị bắt, nạt ta đủ điều Thượng tướng Quang Khải nghênh chiêu Thung nằm Dịch quán đến chiều không ra Hưng Đạo Vương, giả sư già Thung tưởng gián điệp, bèn ra mời vào Ân cần đón tiếp, mời chào Vương bèn cười nói : "tôi nào phải sư" Sài Thung ngượng, mặt đỏ dừ Giở giọng quát nạt y như thằng khùng Hưng Đạo Vương đáp ung dung Cương - nhu kín kẽ, làm Thung tịt ngòi Lính Thung lấy mũi tên, chòi Đầu Vương chảy máu, vẫn ngồi an nhiên Thung sợ, bèn về lại Nguyên Kéo theo phẩm vật qua miền biên cương Gặp phải viên tướng địa phương Đón sứ, bị đánh giữa đường khi xưa Thấy Thung phẩm vật vét vơ Uất hận ngùn ngụt bắn bừa một tên Thung ôm mắt trái thét lên Được lính hộ vệ đeo tên chạy về. Chiều ấy, hai Vua xuống ghe Cùng Trần Quang Khải xuôi về An Bang Gặp Trần Hưng Đạo họp bàn Tính kế khi giặc sắp tràn biên cương (còn nữa) |
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 09:55 PM. |
Powered by: vBulletin v3.x.x
Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.