Xem bài viết đơn
  #2  
Cũ 12-09-2008, 11:02 AM
LEMOTO's Avatar
LEMOTO LEMOTO vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
Super Moderator
Xe đã zin trở lại
 
Tham gia ngày: Jul 2008
Bài gởi: 2.628
Thanks: 13.752
Thanked 8.066 Times in 1.767 Posts
Mặc định Re: LỊCH SỬ CỦA CẢI LƯƠNG

CẢI LƯƠNG LÀ GÌ?
Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vì cải lương, sau trên 80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn lãnh thổ sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những gìmàchúng ta không thể nói được.

Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển "Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương", tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không chắc chắn ngày khai sanh của bộ môn hát mới này. Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập hát cải lương vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được mở mắt chào đời vào năm 1916. Vì không có tài liệu viết trên giấy trắng mực đen, nên không thể khẳng định ngày giờ chắc chắn của sự xuất hiện của cải lương.

Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức ca tài tử tại tư gia khoảng năm 1915. Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết. Lúc đó đã có thấy xuất bản một quyển "Bản đờn tranh và bài ca" do Phụng Hoàng Sang soạn, và Đinh Thái Sơn xuất bản, Saigon, in lần thứ ba, năm 1907. Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng 1900. Qua quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những bài sau đây : "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn", " Bát Man Tấn Cống", "Tứ Đại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân", "Nam Ai", "Tứ Đại Cảnh". Có người cho rằng ông thầy Ký Trần Quang Quờn đã sáng tác bài "Tứ Đại Oán" và "Văn Thiên Tường". Điều chắc chắn là ông Trần Quang Quờn đã sáng chế nhiều cây đờn như cây đại ba tiêu, tiểu ba tiêu, cây song thương màngày nay không thấy được phổ biến. Có thể nói đây là giai đoạn tượng hình thai nghén của hát cải lương.

Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là "Ca ra bộ". Bài hát điển hình nhất làbài "Tứ đại oán " (Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười Hai. Tại Vĩnh Long, chúng ta có thể nghĩ là nơi phát xuất của hát "ca ra bô", giai đoạn phôi thai của hát cải lương. Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ danh Tống Hữu Định, ông Trần Quang Quờn, ông Phạm Đăng Đàng là một danh cầm đất Vãng là những người đóng góp đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau này.

Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert Sarrault, dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên một số chủ bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Đốc Phủ Bảy, Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng, vv ...) bè n chia nhau các vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống Đức. Do sự cải tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát bộ" nghĩa là hát ra bộ qua vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon ngày 16 tháng 11, 1918.

Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Định, ở Sa Đéc có gánh xiệc pha ca ra bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười Vui, ở Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của Vương Văn Có), vv ...

Suy đi nghĩ lại, điểm mà ai cũng đồng ý là hát cải lương bắt nguồn từ hát bội. Lúc ban sơ, các tuồng hát đều dựa theo tuồng cổ của hát bội như "Trảm Trịnh Ân", "Ngưu Cao tảo mộ", "Thoại Khanh Châu Tuấn". Ở hát bội, câu ca không cần bị gòbó theo nhạc đàn, tuy rằng căn bản phải gìn giữ đúng với âm điệu, do đó diễn viên được tự do sáng tạo, được phát huy sở trường, câu hát cao hay thấp, mau hay chậm, ngân nga hay kéo dài không bị giới hạn, chỉ cần phải hòa với nhạc đàn ở những nhịp chính là được. Còn trong cải lương, câu ca phải đúng với điệu đàn, phải hợp với giai điệu và tiết tấu. Để tránh những cử chỉ tượng trưng quá nhiều và hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát cải lương với những bài ca mùi mẫng, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với những tuồng gần với xã hội Việt Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường ngày, với những động tác tự nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu. Về âm nhạc thì bỏ những lối hát nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường, tán, chỉ giữ và phát triển thêm lối nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài tử. Số vốn ca nhạc của sân khấu cải lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong phú. Về điệu "Lý ", có "Lý Ngựa Ô", "Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý Chuồn Chuồn". Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán . Có ba bài Nam : "Nam Xuân", "Nam Ai " và "Nam Đảo", bốn bài oán như "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như "Văn Thiên Tường", "Bình Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Đề Quyên". Ngoài ra những cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi Vắn", "Khổng Minh Tọa Lầu", "Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội". Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản". Bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ", "Long Đăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc ". Đó là chưa kể 8 bài ngắn khác dùng trong nhiều trường hợp vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê ", "Chiêu Quân", "Trường Tương Tư", "Đường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên Kỳ ngộ", "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10 Liên Hoàn (Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẫu Mã).

Giai đoạn tiên khởi của cải lương bắt đầu bằng gánh hát của thầy André Thận vào năm 1917. Đến năm 1918, gánh André Thận rã, thầy Nă m Tú ở Mỹ Tho mới gom góp các tài tử của André Thận lập nên gánh Thầy Năm Tú, sắm thêm y phục, tranh cảnh, và có Trương Duy Toản là thày soạn tuồng đàng hoàng.

Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván gõ, và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ. Thầy Năm Tú có công trong việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt Nam qua các dĩa hát 78 vòng mà những người từ bát tuần trở lên đều nhớ mỗi khi nghe dĩa hát bát đầu bằng cầu "Đây là bạn hát cải lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, hát cho dĩa Pathé Phono nghe chơi"

Từ đó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm. Nào gánh Tập Ích Ban, gánh Tân Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương, gánh Trần Đắc, gánh Huỳnh Kỳ, gánh Phụng Hảo, vv ... đã tạo cho sân khấu cải lương một nền móng vững chắc. Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam ở Saigon) như các bà Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa Đéc, Thanh Tùng, Kim Thoa, và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Nghĩa, Tám Danh, Ba Du, vv… đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ khai đến chỗ toàn hảo.

Từ năm 1938 đến năm 1945, nhóm Kim Thoa của Tư Chơi và gánh Kim Chung tìm cách pha nhạc Tây vào câu ca bài bản cổ Việt.

Đến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng cũ ra diễn lại mà thôi.

Từ năm 1950 trở về sau, cải lương lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ, đánh chưởng, vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra loại tân cổ giao duyên.

Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử, tuồng chiến (gánh hát của Bảy Cao), tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng chưởng, tuồng hồ quãng, vv...

Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần năm 2001), Thành Được (hiện sống ở San Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon, Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống ở California, Hoa Kỳ), vv ... về phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon), Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết (hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh Thanh Hoa (Saigon), Ngọc Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vv ... về phía nữa.

Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Đước (gánh Tân Đồng Ban, từ trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân Hí, Mộng Vân, Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững, Hề Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh,vv ...là những người đã đem sức đem hơi ra chọc được tiếng cười dòn tan của khán giả. Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia thế giới.

Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí Tâm (hiện sống ở Hoa Kỳ), Vương Kiệt, Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ), Phượng Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vv ... nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các bậc tiền bối.

Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm. Ngày nay số gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam, trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải lương tỵn nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh.
Trả Lời Với Trích Dẫn